Tình hình chăn nuôi cả nước tháng 6/2025

Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, sáu tháng đầu năm 2025, sản xuất nông nghiệp phát triển ổn định. Ước tính đến cuối tháng 6/2025, đàn lợn của cả nước tăng 3,8% so với cùng kỳ năm trước, đàn gia cầm tăng 4%, trong khi tổng số trâu giảm 3,4%, đàn bò giảm 0,6%.

 

TÌNH HÌNH CHUNG

Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, sáu tháng đầu năm 2025, sản xuất nông nghiệp phát triển ổn định. Chăn nuôi lợn và gia cầm tiếp tục phục hồi, dịch bệnh được kiểm soát, giá bán sản phẩm duy trì ở mức có lợi cho người chăn nuôi, thị trường tiêu thụ trong nước ổn định, các chính sách hỗ trợ về con giống, thức ăn chăn nuôi và vốn vay ưu đãi đã góp phần khuyến khích người dân tái đàn, mở rộng quy mô sản xuất, nâng cao chất lượng đàn vật nuôi. Ước tính đến cuối tháng 6/2025, đàn lợn của cả nước tăng 3,8% so với cùng kỳ năm trước, đàn gia cầm tăng 4%, trong khi tổng số trâu giảm 3,4%, đàn bò giảm 0,6%. Cụ thể:

– Chăn nuôi lợn: Giá thịt lợn hơi tăng khá cao trong 6 tháng đầu năm 20254 đã khuyến khích người dân đầu tư mở rộng quy mô sản xuất. Theo Cục Thống kê uớc tính tổng số lợn của cả nước tính đến thời điểm cuối tháng 6/2025 tăng 3,8% so với cùng thời điểm năm 2024; sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng 6 tháng đầu năm ước đạt 2.698,9 nghìn tấn, tăng 5,9% so với cùng kỳ năm trước. Đàn lợn tại một số địa phương tăng cao do có nhiều doanh nghiệp mở rộng đầu tư sản xuất như Gia Lai tăng 30%5 so với cùng kỳ năm trước, Kon Tum tăng 20%6, đặc biệt là Tây Ninh, đàn lợn tăng hơn 48% do từ đầu năm đến nay một số dự án chăn nuôi lợn với quy mô lớn đã đi vào hoạt động.

– Chăn nuôi gia cầm: Theo Cục Thống kê, ước tính tổng số gia cầm của cả nước tính đến thời điểm cuối tháng 6 tăng 4% so với cùng thời điểm năm 2024; sản lượng thịt gia cầm hơi xuất chuồng 6 tháng đầu năm ước đạt 1.277,3 nghìn tấn, tăng 4,9% so với cùng kỳ năm 2024; sản lượng trứng gia cầm 6 tháng đầu năm ước đạt 10,5 tỷ quả, tăng 4,3%. Nhìn chung đàn gia cầm cả nước phát triển ổn định trong 6 tháng đầu năm, khu vực doanh nghiệp phát triển tốt, dịch bệnh được kiểm soát, chỉ phát sinh một số ổ dịch nhỏ lẻ.

– Chăn nuôi trâu, bò: Đàn trâu, bò trên cả nước trong 6 tháng đầu năm 2025 tiếp tục xu hướng giảm do hiệu quả kinh tế không cao, diện tích chăn thả thu hẹp. Theo Cục Thống kê ước tính tổng số trâu của cả nước tính đến thời điểm cuối tháng Sáu năm 2025 giảm 3,4% so với cùng thời điểm năm 2024; tổng số bò giảm 0,6%, trong đó số bò sữa giảm 0,7% chủ yếu do đàn bò sữa tại thành phố Hồ Chí Minh giảm gần 25%8. Mặc dù đàn bò sữa giảm nhưng các doanh nghiệp sản xuất như TH, Vinamilk,… đã tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ trong công tác giống nhằm nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm nên tổng sản lượng sữa cả nước vẫn đạt khá. Sản lượng thịt trâu hơi xuất chuồng 6 tháng đầu năm 2025 ước đạt 62,3 nghìn tấn, tăng 0,3% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng thịt bò hơi xuất chuồng đạt 261,5 nghìn tấn, tăng 2,2%; sản lượng sữa bò tươi đạt 680,8 nghìn tấn, tăng 5,8%.

Bieu do 6 thang

 Giá trị xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi: Giá trị xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi tháng 6 năm 2025 ước đạt 49,2 triệu USD, đưa tổng giá trị xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi 6 tháng đầu năm 2025 đạt 264,4 triệu USD, tăng 10,1% so với cùng kỳ năm 2024. Trong đó, xuất khẩu sữa và sản phẩm sữa đạt 46,1 triệu USD, giảm 27,8%, trong khi xuất khẩu thịt, phụ phẩm dạng thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ của động vật đạt 101,4 triệu USD, tăng 28,2%.

 Giá trị nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi: Giá trị nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi tháng 6 năm 2025 ước đạt 383,3 triệu USD, đưa tổng giá trị nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi 6 tháng đầu năm 2025 đạt 2,11 tỷ USD, tăng 21,5% so với cùng kỳ năm 2024. Trong đó, nhập khẩu sữa và sản phẩm sữa đạt 749 triệu USD, tăng 40,1%; nhập khẩu thịt, phụ phẩm dạng thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ của động vật đạt 872,8 triệu USD, tăng 14,5%.

– Giá trị nhập khẩu nguyên liệu TACN: Giá trị nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu tháng 6 năm 2025 ước đạt 300 triệu USD, đưa tổng giá trị nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu 6 tháng đầu năm 2025 đạt 2,3 tỷ USD, giảm 9% so với cùng kỳ năm 2024.

 Về thú y: Theo Cục Chăn nuôi và Thú y, tính đến ngày 28/6/2025 tình hình dịch bệnh gia súc, gia cầm như sau:

(1) Bệnh Cúm gia cầm: Không có báo cáo ổ dịch bệnh mới phát sinh tại các địa phương. Hiện nay, cả nước có 01 ổ dịch bệnh Cúm gia cầm thuộc 01 quận của thành phố Hải Phòng chưa qua 21 ngày. Số gia cầm mắc bệnh là 2.118 con, số gia cầm chết và tiêu hủy là 2.118 con.

(2) Bệnh Dịch tả lợn Châu Phi: Phát sinh 17 ổ dịch mới tại tại các tỉnh Cao Bằng, Sơn La; số lợn mắc bệnh, chết và tiêu huỷ là 1.503 con. Tại các ổ dịch chưa qua 21 ngày các tỉnh Bắc Ninh, Hà Nội, phát sinh số lợn mắc bệnh, chết và tiêu huỷ là 118 con. Hiện nay, cả nước có 176 ổ dịch bệnh Dịch tả lợn Châu Phi thuộc 51 huyện của 18 tỉnh chưa qua 21 ngày. Số lợn mắc bệnh là 9.316 con, số lợn chết và tiêu hủy là 9.424 con.

(3) Bệnh Lở mồm long móng: Không có báo cáo ổ dịch bệnh mới phát sinh tại các địa phương. Hiện nay, cả nước không có ổ dịch Lở mồm long móng chưa qua 21 ngày.

(4) Bệnh Viêm da nổi cục: Không có báo cáo ổ dịch bệnh mới phát sinh tại các địa phương. Hiện nay, cả nước có 02 ổ dịch bệnh Viêm da nổi cục thuộc 02 huyện của 01 tỉnh chưa qua 21 ngày. Số gia súc mắc bệnh, chết và tiêu hủy là 04 con.

(5) Bệnh Tai xanh: Không có báo cáo ổ dịch bệnh mới phát sinh tại các địa phương. Hiện nay, cả nước có 01 ổ dịch bệnh Tai xanh thuộc 01 huyện của 01 tỉnh chưa qua 21 ngày. Số lợn mắc bệnh, chết và tiêu hủy là 01 con.

 

THỊ TRƯỜNG CHĂN NUÔI

Giá thu mua lợn hơi trong nước biến động trái chiều trong tháng 6/2025, cụ thể: Giá lợn hơi tại miền Bắc tăng 1.000 đồng/kg lên mức 68.000 – 69.000 đồng/kg.

Giá lợn hơi miền Trung – Tây Nguyên giảm 500 đồng/kg, dao động trong khoảng 68.000 – 73.000 đồng/kg. Giá lợn hơi miền Nam giảm 1.000 đồng/kg xuống còn 71.000 – 73.000 đồng/kg. Giá lợn hơi có xu hướng giảm do sức mua giảm trong bối cảnh thời tiết nắng nóng, nhu cầu tiêu thụ thịt lợn giảm.

Giá thu mua gà thịt lông màu biến động tăng tại cả ba miền trên cả nước. Giá gà thịt lông màu miền Bắc tăng 2.000 đồng/kg lên 48.000 đồng/kg. Giá gà thịt lông màu miền Trung và miền Nam tăng 1.600 đồng/kg lên mức 49.000 đồng/kg và 51.000 đồng/kg.

Giá gà công nghiệp biến động trái chiều tại ba miền. Giá gà công nghiệp miền Bắc tăng 2.000 đồng/kg lên 26.000 đồng/kg. Giá gà công nghiệp miền Trung giảm 6.000 đồng/kg xuống còn 26.000 đồng/kg. Giá gà công nghiệp miền Nam giảm 4.000 đồng/kg, hiện ở mức 27.000 đồng/kg.

Trong tháng 6/2025, giá thịt lợn kỳ hạn tháng 7/2025 giao dịch trên sàn CME biến động tăng với mức tăng 7,25 US cent/lb lên 112,175 US cent/lb. Giá thịt lợn tăng do nhu cầu tiêu dùng có xu hướng tăng.

Trong tháng 6/2025, giá bò sống kỳ hạn tháng 8/2025 giao dịch trên sàn CME (sau đây gọi tắt là giá bò sống) tăng 2,325 US cent/lb lên mức 211,675 US cent/lb. Giá bò sống tăng do sản lượng thịt bò giảm (theo Ước tính Cung cầu Nông nghiệp thế giới của Bộ Nông nghiệp Mỹ – USDA).

THỊ TRƯỜNG XUẤT NHẬP KHẨU 

+ Xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi: 

Giá trị xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi tháng 6 năm 2025 ước đạt 49,2 triệu USD, đưa tổng giá trị xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi 6 tháng đầu năm 2025 đạt 264,4 triệu USD, tăng 10,1% so với cùng kỳ năm 2024. Trong đó, xuất khẩu sữa và sản phẩm sữa đạt 46,1 triệu USD, giảm 27,8%, trong khi xuất khẩu thịt, phụ phẩm dạng thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ của động vật đạt 101,4 triệu USD, tăng 28,2%.

+ Xuất khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu: (đang cập nhật)

+ Nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi: 

Giá trị nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi tháng 6 năm 2025 ước đạt 383,3 triệu USD, đưa tổng giá trị nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi 6 tháng đầu năm 2025 đạt 2,11 tỷ USD, tăng 21,5% so với cùng kỳ năm 2024. Trong đó, nhập khẩu sữa và sản phẩm sữa đạt 749 triệu USD, tăng 40,1%; nhập khẩu thịt, phụ phẩm dạng thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ của động vật đạt 872,8 triệu USD, tăng 14,5%.

+ Nhập khẩu sữa vả sản phẩm từ sữa: (đang cập nhật)

+ Nhập khẩu thức ăn chăn nuôi và nguyên liệu:

Giá trị nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu tháng 6 năm 2025 ước đạt 300 triệu USD, đưa tổng giá trị nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu 6 tháng đầu năm 2025 đạt 2,3 tỷ USD, giảm 9% so với cùng kỳ năm 2024.

Nguồn nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu chính là các thị trường Áchentina, Hoa Kỳ và Braxin với thị phần lần lượt là 41,9%, 16,2% và 13,9%. So với cùng kỳ năm trước, giá trị nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu 5 tháng đầu năm 2025 từ thị trường Áchentina tăng 53,8%, thị trường Hoa Kỳ giảm 35,2%, thị trường Braxin giảm 11,3%. Trong nhóm 15 thị trường nhập khẩu lớn nhất, giá trị nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu tăng mạnh nhất ở thị trường Áchentina với mức tăng 53,8% và giảm mạnh nhất ở thị trường Ôxtrâylia với mức giảm 39,5%.

– Nhập khẩu ngô: 

Khối lượng nhập khẩu ngô tháng 6 năm 2025 ước đạt 900 nghìn tấn với giá trị đạt 231,3 triệu USD, đưa tổng khối lượng và giá trị nhập khẩu ngô 6 tháng đầu năm 2025 đạt 4,9 triệu tấn và 1,27 tỷ USD, tăng 1% về khối lượng và tăng 4,3% về giá trị so với cùng kỳ năm 2024.

Giá ngô nhập khẩu bình quân 6 tháng đầu năm 2025 ước đạt 258,8 USD/tấn, tăng 3,2% so với cùng kỳ năm 2024.

Áchentina và Braxin là 2 thị trường cung cấp ngô chính cho Việt Nam với thị phần lần lượt là 49,8% và 24,1%. So với cùng kỳ năm trước, giá trị nhập khẩu ngô 5 tháng đầu năm 2025 từ thị trường Áchentina tăng 5,9% và thị trường Braxin giảm 34,5%.

– Nhập khẩu đậu tương: 

Khối lượng nhập khẩu đậu tương tháng 6 năm 2025 ước đạt 380 nghìn tấn với giá trị đạt 168,1 triệu USD, đưa tổng khối lượng và giá trị nhập khẩu đậu tương 6 tháng đầu năm 2025 đạt 1,3 triệu tấn và 597,1 triệu USD, tăng 23,2% về khối lượng và tăng 5,9% về giá trị so với cùng kỳ năm 2024.

Giá đậu tương nhập khẩu bình quân 6 tháng đầu năm 2025 ước đạt 453,3 USD/tấn, giảm 14% so với cùng kỳ năm 2024.

Việt Nam chủ yếu nhập khẩu đậu tương từ 2 thị trường Hoa Kỳ và Braxin với tỷ trọng giá trị nhập khẩu từ 2 thị trường này lần lượt là 48% và 39,1%. So với cùng kỳ năm trước, giá trị nhập khẩu đậu tương 5 tháng đầu năm 2025 từ thị trường Hoa Kỳ tăng 9,9% và thị trường Braxin giảm 42,2%.

– Nhập khẩu lúa mì: 

Khối lượng nhập khẩu lúa mì tháng 6 năm 2025 ước đạt 340 nghìn tấn với giá trị đạt 94,1 triệu USD, đưa tổng khối lượng và giá trị nhập khẩu lúa mì 6 tháng đầu năm 2025 đạt 3,1 triệu tấn và 823,1 triệu USD, giảm 1,3% về khối lượng và giảm 4,5% về giá trị so với cùng kỳ năm 2024.

Giá lúa mì nhập khẩu bình quân 6 tháng đầu năm 2025 ước đạt 267,1 USD/tấn, giảm 3,2% so với cùng kỳ năm 2024.

Nguồn cung cấp lúa mì chính của Việt Nam là từ các thị trường Braxin, Ôxtrâylia, Hoa Kỳ, và Canađa với thị phần lần lượt là 34,9%, 24,3%, 12,8%, và 7,8%. So với cùng kỳ năm trước, giá trị nhập khẩu lúa mì 5 tháng đầu năm 2025 từ thị trường Braxin giảm 9,9%, thị trường Ôxtrâylia tăng 6,3%, thị trường Hoa Kỳ tăng 26,3%, và thị trường Canađa tăng 39,1%.

Nguồn: Channuoivietnam.com